Chào mọi người, hôm nay tôi lại ngoi lên chia sẻ một chút về cái hành trình mà tôi nghĩ ai học tiếng Anh cũng phải trải qua, đó là làm quen với cái bảng chữ cái tiếng Anh và cách đọc của nó. Nghe thì có vẻ đơn giản đúng không? Ừ thì A B C D… ai mà chả biết. Nhưng mà hồi đó tôi cũng vật vã với nó lắm đấy.
Lúc mới bắt đầu, tôi cũng như nhiều người, cứ nghĩ là biết mặt chữ là xong. Kiểu như chữ “A” thì đọc là “a”, chữ “B” đọc là “bê”. Nhưng mà không phải vậy đâu bà con ơi. Tiếng Anh nó oái oăm ở chỗ đó đó. Một chữ cái nó có thể có nhiều cách đọc khác nhau tùy thuộc nó đứng ở đâu, đi với chữ nào.
Bắt đầu từ đâu nhỉ?
Đầu tiên, tôi cũng phải lôi cái bảng 26 chữ cái ra ngắm nghía. Rồi tôi tìm hiểu xem từng chữ một, người ta thường đọc nó như thế nào trong các trường hợp phổ biến. Tôi nhớ là mình đã kiếm mấy cái video trên mạng, có người bản xứ họ đọc chậm từng chữ, rồi đọc trong từ nữa. Tôi cứ bật đi bật lại nghe rồi đọc theo.
Ví dụ nhé:
- Chữ A: Đâu chỉ có đọc là “a” như mình hay gọi tên đâu. Nó có thể là /æ/ như trong “cat” (con mèo) hoặc /eɪ/ như trong “cake” (cái bánh), hay thậm chí là /ɑː/ trong “car” (xe hơi). Lúc đầu tôi cứ loạn hết cả lên.
- Chữ E: Cũng vậy, có lúc là /e/ như trong “bed” (cái giường), có lúc lại là /iː/ như trong “me” (tôi).
- Rồi mấy cái chữ như G với J. Chữ G có thể đọc là /g/ (“go” – đi) hoặc /dʒ/ (“gym” – phòng tập). Chữ J thì thường là /dʒ/ (“job” – công việc). Tôi phải ghi chú lại cẩn thận.
- Chữ H thì người Việt mình hay đọc thành “hắt”, nhưng thực ra nó chỉ là một luồng hơi nhẹ /h/ thôi, như trong “hello”.
- Mấy chữ khó nhằn như R, W, Y, Z thì đúng là một thử thách. Chữ R thì phải uốn lưỡi, chữ W thì chu môi, chữ Y có lúc là phụ âm /j/ (yes), có lúc là nguyên âm /ɪ/ (gym) hoặc /aɪ/ (my). Còn chữ Z thì phải rung cổ họng /z/.
Cứ mỗi ngày tôi dành ra một ít thời gian, khoảng 30 phút gì đó, chỉ để tập đọc mấy cái chữ cái này thôi. Tôi không học dồn một lúc đâu, vì như thế dễ nản lắm. Tôi chia nhỏ ra, hôm nay tập kỹ vài chữ, mai lại tập tiếp vài chữ khác, rồi ôn lại chữ cũ. Tôi lấy giấy bút ra, vừa viết chữ đó, vừa viết phiên âm cách đọc bên cạnh (cái phiên âm IPA ban đầu nhìn như giun dế ấy, nhưng nhìn mãi cũng quen).
Rồi tôi tập ghép vần thử với mấy từ đơn giản. Ví dụ như “b-a-t” thì đọc là /bæt/ (con dơi), “c-a-r” thì là /kɑːr/. Cứ từ từ như thế.

Cái quan trọng nhất tôi nhận ra là phải MỞ MIỆNG RA ĐỌC TO. Đừng có ngại. Lúc đầu đọc sai tùm lum, nghe buồn cười lắm, nhưng mà không đọc to thì không biết mình sai ở đâu mà sửa. Tôi còn tự ghi âm lại giọng mình đọc, rồi so sánh với người bản xứ xem khác chỗ nào.
Nhiều lúc cũng thấy nản, nhất là mấy cái âm mà tiếng Việt mình không có. Ví dụ như âm /θ/ (trong “think”) hay /ð/ (trong “this”). Tôi phải lè lưỡi, kẹp răng các kiểu, tập mãi mới hơi giống một chút. Có những hôm đọc xong mà mỏi cả cơ miệng luôn.
Nhưng mà sau một thời gian kiên trì, đâu đó khoảng vài tuần thì tôi bắt đầu thấy khá hơn. Nhìn vào một chữ cái, tôi có thể hình dung ra được các cách đọc phổ biến của nó. Rồi khi nhìn vào một từ mới, tôi cũng mạnh dạn hơn trong việc đoán cách đọc, dù đôi khi vẫn sai.
Đến giờ thì tuy chưa phải là chuẩn xịn như người bản xứ, nhưng ít ra thì tôi cũng không còn sợ cái bảng chữ cái nữa rồi. Nó giống như mình học thuộc bảng cửu chương vậy đó, thuộc rồi thì sau này làm toán nó cũng dễ hơn nhiều. Nắm được cách đọc cơ bản của từng chữ cái là cái nền tảng rất quan trọng để sau này mình phát âm từ, rồi nói cả câu nó được tự nhiên hơn.
Đó là chút kinh nghiệm thực tế của tôi khi vật lộn với bảng chữ cái tiếng Anh và cách đọc. Ai mà đang bắt đầu thì cứ kiên trì nhé, từ từ rồi cũng sẽ quen thôi. Quan trọng là phải thực hành đều đặn và đừng sợ sai. Chúc mọi người thành công!

Leave a Comment