Chào mọi người, hôm nay tôi muốn chia sẻ một chút về hành trình tự mày mò học cách đọc bảng chữ cái tiếng Anh của mình. Chuyện là dạo này tôi thấy nhiều người xung quanh, nhất là mấy đứa nhỏ, ê a bảng chữ cái tiếng Anh mà mình thấy hơi… ngượng. Mình dùng tiếng Anh cũng tàm tạm mà nhiều khi đánh vần tên hay đọc mấy từ viết tắt lại cứ lúng túng, phát âm từng chữ cái không chuẩn lắm. Thế là quyết tâm, phải học cho ra ngô ra khoai.

Ban đầu, tôi cũng nghĩ đơn giản lắm. Cứ tưởng nhìn mặt chữ là đọc được ngay như tiếng Việt mình. Ai dè, nó oái oăm hơn mình tưởng. Nhiều chữ cái nhìn quen quen mà đọc lên lại khác hẳn. Ví dụ như chữ “A” không phải lúc nào cũng là “a” như mình hay đọc, mà nó là /eɪ/. Rồi chữ “E” lại đọc là /iː/, còn chữ “I” thì lại là /aɪ/. Loạn hết cả lên!
Quá trình tôi thực hành thế này:
Bước 1: Tìm nguồn chuẩn.
Tôi bắt đầu bằng việc lên mạng tìm mấy video dạy phát âm bảng chữ cái tiếng Anh cho người mới bắt đầu. Ưu tiên mấy video có người bản xứ nói, chậm rãi, rõ ràng. Tôi cũng tìm mấy cái bảng có cả chữ cái, cách đọc phiên âm quốc tế (IPA) kế bên và cả ví dụ từ đơn giản nữa.
Bước 2: Nghe và lặp lại từng chữ.
Đây là công đoạn tốn thời gian nhất nhưng mà quan trọng cực kỳ. Tôi mở video, nghe người ta đọc từng chữ một, rồi cố gắng bắt chước y chang. Mấy chữ đầu như A, B, C thì còn dễ:

- A đọc là /eɪ/ (nghe như “ây”)
- B đọc là /biː/ (nghe như “bi”)
- C đọc là /siː/ (nghe như “xi”)
Nhưng đến mấy chữ sau thì bắt đầu thấy “thử thách” hơn. Ví dụ:
- G đọc là /dʒiː/ (nghe như “dzi”) – chữ này tôi hay nhầm với J
- H đọc là /eɪtʃ/ (nghe như “ây-ch”) – hồi xưa toàn đọc “hắt”
- J đọc là /dʒeɪ/ (nghe như “dzây”)
- Q đọc là /kjuː/ (nghe như “kiu”)
- R đọc là /ɑːr/ hoặc /ɑː/ (phải uốn lưỡi một chút) – chữ này người Việt mình hay bỏ qua cái âm cuối.
- W đọc là /ˈdʌbəljuː/ (nghe như “đắp-bồ-liu”) – dài dòng ghê!
- Y đọc là /waɪ/ (nghe như “oai”)
- Z đọc là /zed/ (Anh-Anh) hoặc /ziː/ (Anh-Mỹ) – tôi chọn đọc là /ziː/ cho dễ.
Tôi cứ nghe đi nghe lại, tự đọc to theo. Có khi còn lấy điện thoại ra ghi âm lại giọng mình rồi so sánh với giọng người bản xứ xem có giống không. Nghe lại giọng mình thấy ngô nghê buồn cười lắm, nhưng mà nó giúp mình nhận ra lỗi sai.
Bước 3: Nhóm các chữ cái dễ nhầm lẫn lại.
Tôi thấy có mấy cặp hay bị lẫn lộn, ví dụ như G (/dʒiː/) và J (/dʒeɪ/), rồi A (/eɪ/), E (/iː/) và I (/aɪ/). Tôi viết mấy chữ này ra giấy, ghi cả cách đọc bên cạnh rồi nhìn vào đó luyện thường xuyên. Cứ tự hỏi mình, chữ này đọc sao, chữ kia đọc sao.
Bước 4: Tập đọc các từ viết tắt đơn giản.

Sau khi thấy mình đọc từng chữ cái khá hơn rồi, tôi bắt đầu tập đọc mấy từ viết tắt hay gặp như USA (U-S-A /juː.esˈeɪ/), BBC (B-B-C /ˌbiː.biːˈsiː/), VIP (V-I-P /ˌviː.aɪˈpiː/). Lúc này mới thấy việc học phát âm chuẩn từng chữ cái nó quan trọng thế nào. Đọc đúng từng chữ thì ghép lại nó mới ra hồn được.
Bước 5: Luyện tập thường xuyên.
Mỗi ngày tôi dành khoảng 15-20 phút để ôn lại. Có khi đang đi đường, nhìn thấy biển số xe có chữ tiếng Anh là tôi lại lẩm nhẩm đọc thử. Hoặc lúc xem phim có phụ đề tiếng Anh, thấy tên riêng nào lạ là tôi cũng cố gắng đánh vần trong đầu. Có hôm đang nấu ăn cũng lẩm nhẩm A, B, C… vợ tôi còn tưởng tôi bị làm sao đó. Nhưng mà kệ, phải “chai mặt” một tí mới tiến bộ được.
Kết quả thu được:
Sau khoảng một tuần kiên trì, thì mọi thứ bắt đầu vào guồng. Tôi không còn bị líu lưỡi hay nhầm lẫn giữa các chữ cái nhiều như trước nữa. Tất nhiên là chưa thể hoàn hảo 100% như người bản xứ được, nhưng mà tự tin hơn hẳn khi cần đánh vần tên hay địa chỉ email, hoặc khi nghe người khác đánh vần. Ít ra thì không còn cảm thấy “quê quê” như hồi trước.
Đấy, quá trình của tôi nó đơn giản vậy thôi. Quan trọng nhất vẫn là sự kiên trì và tìm đúng cách để luyện tập. Đúng là không có gì khó, chỉ sợ lòng không bền thôi các bạn ạ. Hy vọng chia sẻ này của tôi có ích cho ai đó cũng đang muốn cải thiện phần này giống tôi nhé!

Leave a Comment